Bằng những vần thơ lục bát ngọt ngào mang đậm màu sắc ca dao dân ca, thông qua cuộc đối đáp có tính chất tưởng tượng giữa kẻ ở người đi như thể người yêu đưa tiễn người yêu đầy lưu luyến vấn vương; bằng lối xưng hô Mình – Ta, một lối xưng hô truyền thống đậm đà tình nghĩa, bài thơ Việt Bắc đã tái hiện một cách chân thực và sinh động cuộc kháng chiến anh hùng và nhân dân anh hùng của cuộc kháng chiến, cùng những tình cảm điển hình của con người kháng chiến.

Bài thơ ra đời vào tháng 10/1954, sau chiến thắng Điện Biên, khi Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ rời “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình”. Bài thơ vừa là khúc hát ân tình thuỷ chung của miền ngược và miền xuôi, vừa là bài ca chiến thắng của một thời kỳ lịch sử oanh liệt. Đoạn thơ ta phân tích nằm ở phần đầu, tái hiện một giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỷ niệm sâu nặng trong lòng người.

Bài thơ mở ra trong một khung cảnh chia tay với tâm trạng bâng khuâng bồn chồn lưu luyến vấn vương của hai người đã từng gắn bó bền lâu sâu nặng. Người ở lại lên tiếng trước, như nhạy cảm với hoàn cảnh đổi thay gợi nhắc những kỷ niệm gắn bó, những cội nguồn tình nghĩa.

Mình về mình có nhớ ta
Nhìn cây nhở núi, nhìn sông nhớ nguồn

Nhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình: “Mình đi mình lại nhớ mình”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi, bộc lộ tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên tất cả, lan toả lên cả cỏ cây mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta phân tích đã có đến 35 từ “nhớ”. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Và trong niềm hoài niệm, hối tưởng suốt “mười lăm năm thiết tha mặn nồng” ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất khó có thể tách rời. Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa; nỗi nhớ thiên nhiên Việt Bắc; con người, cuộc sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng.

Trước hết bài thơ mở đầu bằng tiếng hát ân tình chung thuỷ, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Việt Nam:

Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tìm mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ người

Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng” và cùng ân tình, thuỷ chung biết bao khi “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “mình”, bốn chữ“nhớ” một chữ “ta” hoà quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thuỷ chung ấy thêm sâu nặng.

Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như là một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó “Tiếng ai tha thiết bên cồn”; có bước chân “bồn chồn” và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối “bâng khuâng… bồn chồn” đã làm tăng thêm biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu “áo chàm” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa gợi cảm: màu áo của người Việt Bắc không phai, đậm đà bền vững như lòng thuỷ chung sắt son của họ. “Cầm tay… hôm nay” không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời.

Sau khi “dàn cảnh” khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn “trứng nước” rất gian nan nhưng sâu nặng nghĩa tình: “Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. “Miếng cơm chấm muối” là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tế cuộc kháng chiến đầy khó khăn, gian khổ. Hình ảnh “mối thù nặng vai” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và kết hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa mới: mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian khổ để chiến thắng quân thù. Người ra đi có nhớ không? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa danh cách mạng lịch sử, với biết bao gian nan cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình “Hắt hiu lau xám” nhưng “đậm đà lòng son” rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù” – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được tất cả cái khắc nghiệt, dữ dội của thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đà cố đến 8 chữ “mình” và 7 chừ “nhớ”, trong đó có câu thơ 3 chữ “mình” luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa danh cách mạng từ nay đà di vào lịch sử nối tiếp Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa…

Mình đi, mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa

Tố Hữu đã để cho người về xuôi trả lời nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nồi nhớ về quê hương cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “đinh ninh lời thề” sau trước có nhau, nên câu trả lòi của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu

Những chữ “ta”, “mình” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi: “Mình đi, mình có nhớ mình” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “mình đi, mình lại nhớ mình”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không bao giờ cạn: “Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu”. “Bao nhiêu, bấy nhiêu” – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh được sự giàu có, phong phú của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết.

Qua hoài niệm, trái tim người ra đi cứ dào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu đẹp đẽ: Có nỗi nhớ thơ mộng:

Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi bóng chiều lưng nương

Có nơi nhớ ấm áp:

Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thường đi về

Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở “hàn vi” thắm tình đồng chí, đồng bào, đã từng cưu mang đùm bọc lẫn nhau:

Ta đi, ta nhớ những ngày
Mình đây, ta đấy đắng cay ngọt bùi

Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô

Củ sắn lùi thì “chia”, bát cơm thì “sẻ”, chăn sui thì “đắp cùng”. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong cuộc sống gian nan thiếu thốn; càng sắt son thấm thía trong khó khăn thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh sinh hoạt và cuộc sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, chứa đựng những dung động, tình cảm chân thật, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với cuộc sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn “bản khói cùng sương” thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với “sớm khuya bếp lửa người thương đi về”, thì ấm áp hẳn lên. “Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê” chỉ là những tên gọi địa danh, nhưng khi kèm với hai chữ “vơi đầy”, thì cảnh bỗng trở nên tràn đầy tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với thiên nhiên, giữa con người với con người.

Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, thiên nhiên.

Việt Bắc hiện ra không chỉ là thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng…
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào

Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp da dạng trong thời gian và không gian khác nhau, trong các thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong các mùa thay đổi. Điều đặc biệt là hình ảnh thiền nhiên gắn với bóng dáng con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên gần gũi thân thiết với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau:

Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
….
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng nghệ thuật truyền thống, tạo nên một bộ tứ bình đặc sắc. Mỗi bức tranh đều có một màu sắc, âm thanh chủ đạo và rất sinh động đa dạng: Khi lắng dịu, khi rực rỡ chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi màu sắc, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho thiên nhiên trở nên đẹp đẽ sinh động hơn.
Theo dòng cảm xúc hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh rộng lớn, những hoạt động tấp nập, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch “Điện Biên lừng lẫy địa cầu”:

Những đường Viết Bắc của ta
….
Đèn pha bột sáng như ngày mai lên

Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm màu sắc sử thi. Giọng thơ dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng.

Những câu thơ tái hiện khung cảnh “Trung ương Chính phủ luận bàn việc công” trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ đặc sắc. Dường như tác giả chỉ liệt kê công việc nhưng đã phản ánh chân thật không khí làm việc giản dị trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chi huy của cuộc kháng chiến; trong đó nổi bật lên hình ảnh lung linh rực rỡ ngời sáng của “Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa rực rỡ sao vàng”.

Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ thâu tóm hình ảnh Việt Bắc: “Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà”, đầu nào của cuộc kháng chiến; Việt Bắc là niềm tin, hy vọng của nhân dân Việt Nam từ mọi miền đất nước, đặc biệt là đối với những nơi còn “u ám quân thù; đau đớn giống nòi”, thì Việt Bắc là điểm tựa tinh thần đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến.

Qua bài thơ Việt Bắc, Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống thuỷ chung son sắt “uống nước nhớ nguồn”.

(Nguyễn Thị Thanh Huyền, giáo viên dạy văn tại trường THPT chuyên Hùng Vương – Việt Trì – Phú Thọ)

tửu tận tình do tại

Nhưng người ra đi cũng cùng chung một tâm trạng ấy, nên nỗi nhớ không chỉ là hướng về người khác má cũng là nỗi nhớ chính mình : “ Mình đi mình lại nhớ mình ”. Lời hỏi của người ở lại đã làm khơi dậy cả một quá khứ đầy kỷ niệm, khơi nguồn cho mạch nhớ thương tuôn chảy. Đối đáp ở đây là một thủ pháp khơi gợi, thể hiện tâm trạng và tạo ra sự hô ứng đồng vọng của tình cảm. Bao trùm trong tâm trạng của kẻ ở người về là nỗi nhớ cứ thấm đượm lên toàn bộ, lan toả lên cả cỏ cây mây nước. Chỉ riêng trong đoạn thơ ta nghiên cứu và phân tích đã có đến 35 từ “ nhớ ”. Nỗi nhớ tha thiết ấy, qua dòng hồi tưởng đã làm sống dậy những kỷ niệm sâu nặng nghĩa tình. Và trong niềm hoài niệm, hối tưởng suốt “ mười lăm năm thiết tha mặn nồng ” ấy, bao trùm có mấy bức tranh hiện thực hoà nhập thống nhất khó hoàn toàn có thể tách rời. Đó là nỗi nhớ cội nguồn tình nghĩa ; nỗi nhớ vạn vật thiên nhiên Việt Bắc ; con người, đời sống Việt Bắc, cùng những kỷ niệm về cuộc kháng chiến anh hùng. Trước hết bài thơ mở màn bằng tiếng hát ân tình chung thuỷ, gợi nhắc cội nguồn tình nghĩa, thấm nhuần đạo lý Nước Ta : Lời thơ nghe như ca dao, lại phảng phất âm hưởng thơ Kiều. Sâu nặng biết bao trong “ Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng ” và cùng ân tình, thuỷ chung biết bao khi “ nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ”. Bốn câu thơ mà có đến bốn chữ “ mình ”, bốn chữ “ nhớ ” một chữ “ ta ” hoà quyện quấn quýt với nhau như hình với bóng, khiến cho cái đạo lý ân tình thuỷ chung ấy thêm sâu nặng. Sau khúc hát dạo đầu, là cảnh tiễn đưa bâng khuâng trong nỗi nhớ cả người ở lại và người ra đi như thể một khúc hát giao duyên quan họ. Ở đây có âm thanh da diết thiết tha của ai đó “ Tiếng ai tha thiết bên cồn ” ; có bước chân “ bồn chồn ” và những bàn tay nắm nhau lưu luyến. Tiểu đối “ bâng khuâng … bồn chồn ” đã làm tăng thêm biết bao nỗi nhớ thương vấn vương lưu luyến. Cái màu “ áo chàm ” trong câu thơ trên vừa gợi hình, vừa quyến rũ : màu áo của người Việt Bắc không phai, đậm đà vững chắc như lòng thuỷ chung sắt son của họ. “ Cầm tay … ngày hôm nay ” không phải là không biết nói gì, mà vì trong lòng tràn ngập tình nhớ thương khó nói nên lời. Sau khi “ dàn cảnh ” khung cảnh chia tay, Tố Hữu để cho người ở lại lên tiếng. Chỉ có 12 câu nhưng đều xoáy vào những kỷ niệm của những ngày cách mạng còn “ trứng nước ” rất nguy hiểm nhưng sâu nặng nghĩa tình : ” Miếng cơm chan muối, mối thù nặng vai – Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son. “ Miếng cơm chấm muối ” là hình ảnh chân thực được rút ra từ thực tiễn cuộc kháng chiến đầy khó khăn vất vả, gian nan. Hình ảnh “ mối thù nặng vai ” đã cụ thể hoá, vật chất hoá mối thù của nhân dân ta với quân xâm lược. Hai hình ảnh ấy đối xứng và phối hợp với nhau tạo nên một ý nghĩa mới : mối tình đoàn kết chiến đấu cùng gian nan để thắng lợi quân địch. Người ra đi có nhớ không ? Và còn biết bao điều đáng nhớ nữa về chiến khu Việt Bắc với những địa điểm cách mạng lịch sử dân tộc, với biết bao gian truân cơ cực mà thắm thiết nghĩa tình “ Hắt hiu lau xám ” nhưng “ đậm đà lòng son ” rồi những mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù ” – chỉ một câu thơ ngắn gọn nhưng lại sống dậy được toàn bộ cái khắc nghiệt, kinh hoàng của vạn vật thiên nhiên Việt Bắc những ngày kháng chiến. Trong một đoạn thơ ngắn mà đà cố đến 8 chữ “ mình ” và 7 chừ “ nhớ ”, trong đó có câu thơ 3 chữ “ mình ” luyến láy và chuyển nghĩa rất tài tình khi nhắc đến những địa điểm cách mạng từ nay đà di vào lịch sử vẻ vang tiếp nối đuôi nhau Chương Dương, Vạn Kiếp, Đống Đa … Tố Hữu đã để cho người về xuôi vấn đáp nhiều hơn, vì trong họ chứa chất biết bao nồi nhớ về quê nhà cách mạng, khi phải rời xa. Đây là nỗi nhớ của những người đã từng cùng cam, cộng khổ, chia ngọt sẻ bùi, từng “ đinh ninh lời thề ” sau trước có nhau, nên câu trả lòi của họ chính là tiếng đồng vọng của cõi lòng người ở lại : Những chữ “ ta ”, “ mình ” quấn quýt, luyến láy trong câu thơ đã nói rõ lời đồng vọng đó. Người ở lại hỏi : “ Mình đi, mình có nhớ mình ” thì người ra đi có ngay lời đồng vọng “ mình đi, mình lại nhớ mình ”, tuy hai mà một. Thật hài hoà, gắn bó, thắm thiết. Bởi nghĩa tình của họ như suối nguồn không khi nào cạn : “ Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu ”. “ Bao nhiêu, bấy nhiêu ” – Cặp từ hô ứng đã nhấn mạnh vấn đề được sự phong phú, đa dạng chủng loại của nghĩa tình keo sơn không sao kể xiết. Qua hoài niệm, trái tim người ra đi cứ dào lên biết bao nỗi nhớ với đủ mọi sắc màu xinh xắn : Có nỗi nhớ thơ mộng : Có nơi nhớ ấm cúng : Nhưng nhớ nhất là những ngày cay đắng ngọt bùi của thuở “ hàn vi ” thắm tình chiến sỹ, đồng bào, đã từng nuôi nấng đùm bọc lẫn nhau : Củ sắn lùi thì “ chia ”, bát cơm thì “ sẻ ”, chăn sui thì “ đắp cùng ”. Đúng, cái đẹp nhất là ở tình nghĩa của con người, ở sự san sẻ, cùng chung mọi khó khăn và niềm vui. Nghĩa tình càng đẹp hơn nữa trong đời sống gian truân thiếu thốn ; càng sắt son thấm thía trong khó khăn vất vả thử thách. Trong đoạn thơ này, có những câu gợi lên cảnh hoạt động và sinh hoạt và đời sống bình dị của con người, vốn rất hiếm thấy trong thơ Tố Hữu, nhưng lại là những câu thơ hay, tiềm ẩn những dung động, tình cảm chân thực, thắm thiết nghĩa tình của nhà thơ với đời sống và con người của chiến khu Việt Bắc. Chẳng hạn “ bản khói cùng sương ” thì e lanh giá, hoang vu, nhưng sau đó với “ sớm khuya nhà bếp lửa người thương đi về ”, thì ấm cúng hẳn lên. “ Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê ” chỉ là những tên gọi địa điểm, nhưng khi kèm với hai chữ “ vơi đầy ”, thì cảnh bỗng trở nên tràn trề tình nghĩa, có sự gắn bó thiết tha giữa con người với vạn vật thiên nhiên, giữa con người với con người. Giữa bao nỗi nhớ ấy, tác giả đã dành cho vạn vật thiên nhiên Việt Bắc một tình cảm đặc biệt quan trọng. Qua tấm lòng chứa chan tình nghĩa cách mạng, kháng chiến của tác giả, vạn vật thiên nhiên. Việt Bắc hiện ra không chỉ là vạn vật thiên nhiên với vẻ đẹp hùng vĩ và nên thơ, mà đó còn là vạn vật thiên nhiên đã cùng con người đánh giặc và ghi lại biết bao sự tích anh hùng : Thiên nhiên ở đây hiện lên với những vẻ đẹp da dạng trong thời hạn và khoảng trống khác nhau, trong những thời tiết sương sớm, nắng chiều trăng khuya, trong những mùa đổi khác. Điều đặc biệt quan trọng là hình ảnh thiền nhiên gắn với bóng hình con người, làm cho cảnh bớt hoang sơ hiu hắt và trở nên thân mật thân thiện với con người hơn. Tiêu biểu nhất là đoạn thơ sau : Tố Hữu đã dựng được bốn bức tranh theo đúng thẩm mỹ và nghệ thuật truyền thống lịch sử, tạo nên một bộ tứ bình rực rỡ. Mỗi bức tranh đều có một sắc tố, âm thanh chủ yếu và rất sinh động phong phú : Khi lắng dịu, khi rực rỡ tỏa nắng chói chang, khi rộn ràng náo nức. Tương ứng với mỗi sắc tố, âm thanh của tự nhiên là một nét đẹp con người. Thiên nhiên làm nền cho con người và chính con người lại tô điểm cho vạn vật thiên nhiên trở nên xinh xắn sinh động hơn. Theo dòng cảm hứng hồi tưởng, bài thơ đã dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc kháng chiến với những bức tranh to lớn, những hoạt động giải trí sinh động, sôi động của cuộc kháng chiến anh hùng chuẩn bị sẵn sàng cho cuộc tổng phân công bằng một chiến dịch “ Điện Biên lừng lẫy địa cầu ” : Đoạn thơ được viết với bút pháp anh hùng ca, mang đậm sắc tố sử thi. Giọng thơ dào dạt sảng khoái với những hình ảnh vừa chân thực vừa bay bổng, vừa hùng tráng. Những câu thơ tái hiện khung cảnh “ Trung ương nhà nước luận bàn việc công ” trong hang núi ở Việt Bắc cũng là những câu thơ rực rỡ. Dường như tác giả chỉ liệt kê việc làm nhưng đã phản ánh chân thực không khí thao tác giản dị và đơn giản trang nghiêm mà khẩn trương của Bộ Tổng chi huy của cuộc kháng chiến ; trong đó điển hình nổi bật lên hình ảnh lộng lẫy bùng cháy rực rỡ ngời sáng của “ Ngọn cờ đỏ thắm gió lộng cửa hang, Nắng trưa bùng cháy rực rỡ sao vàng ”. Phần thứ nhất của bài thơ được khép lại bằng sáu câu thơ tóm gọn hình ảnh Việt Bắc : “ Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà ”, đầu nào của cuộc kháng chiến ; Việt Bắc là niềm tin, kỳ vọng của nhân dân Nước Ta từ mọi miền quốc gia, đặc biệt quan trọng là so với những nơi còn “ sầm uất quân địch ; đau đớn giống nòi ”, thì Việt Bắc là điểm tựa ý thức đà tiếp thêm sức mạnh cho đồng bào kháng chiến. Qua bài thơ, Tố Hữu đà làm hiện lên hình ảnh Việt Bắc “ quê nhà cách mạng dựng nên cộng hoà ” một thời gian khổ mà sâu nặng nghĩa tình. Bài thơ tô đậm thêm truyền thống cuội nguồn tốt đẹp của dân tộc bản địa Nước Ta. Đó là truyền thống cuội nguồn thuỷ chung son sắt “ uống nước nhớ nguồn ” .

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *